Khi bất đắc dĩ phải hàng TÀO THÁO để giữ mạng sống cho CAM, MI phu nhân (vợ LƯU BỊ) QUAN CÔNG luôn giữ được nghĩa khí của mình luôn biết giữ đúng phép tắc kính trên nhường dưới. Có một lần để TÀO THÁO đã bố trí cho QUAN CÔNG và 2 vị CAM, MY phu nhân o cùng một phòng QUAN CÔNG đã cầm nến đứng hầu ở ngoài cả đem không biết mệt mỏi THÁO được tin đó không khỏi khâm phục cái nghĩa khí đó của QUAN CÔNG. Dù TÀO THÁO có dùng của cải, gái đẹp, và đối đãi với QUAN CONG rất hậu (hơn LƯU BỊ rất nhiều): 3 ngày một tiệc nhỏ, 5 ngày một tiệc lớn, lên ngựa thưởng một nén vàng, xuống ngựa thưởng một nén bạc…. nhưng tất cả những thứ đó không thể nào làm thay đổi được tấm lòng son sắt của QUAN CÔNG. Khi biết được tin anh mình ở chỗ VIÊN THIỆU QUAN CÔNG đã không ngại gian lao vất vả “qua 5 quan chém 6 tướng để về với LƯU BỊ:
Treo ấn phong vàng giã tướng TÀO
Tìm anh dấn bước dạ xôn xao
Xông pha nghìn dặm bon chân ngựa
Xung đột năm quan múa lưỡi đao
Trời đất chứa chan lòng tiết nghĩa
Núi non lừng lẫy tiếng anh hào
Một mình chém tương ai đuơng nổi
Đề vịnh xưa nay kể xiết bao
Trước khi từ giã TÀO THÁO để về với chủ cũ QUAN CÔNG đã không quên trả ơn cho THÁO (chém 2 tướng giỏi của VIÊN THIỆU là NHAN LƯƠNG vÀ VĂN SÚ, giải vây thành BẠCH MÃ giúp TÀO THÁO). Khi TÀO THÁO gặp nạn ở HOA DUNG. QUAN CÔNG đã nghĩ đến tình nghĩa trước đây của THÁO mà tha chết cho y. Cái nghĩa khí ấy của QUAN CÔNG khiến cho người ta vô cùng bội phục. Ngay cả TÀO THÁO cũng phải kính trọng nói với các tướng của mình rằng:”tước lọc và tiền bạc không đổi chí lúc đến lúc đi đều phân minh những người như vậy ta vô cùng kính trọng_các ngươi nên học theo”.
Về sau QUAN CÔNG đã bị LỤC TỐN dùng quỷ kế. ĐÃ bẮt đước QUAN CÔNG dâng cho TÔN QUYỀN và bị xử tử vào năm KIẾN AN thứ 24(219). thọ 58 tuổi thiên hạ mất đi một vi anh hùng cái chết của ông là do tính kiêu ngạo mang lại ông đã coi thường LỤC TỐN một kẻ không có danh tiếng nhưng mưu mô sâu sắc và chính kẻ không có danh tiếng đó đã đánh cho ông thể thảm và ông đã phải trả cái giá quá đắt cho tính kiêu ngạo của mình _bằng chính tính mạng mình. Nhưng cái tính kiêu ngạo của ông hầu như bị lu mờ bởi phẩm chất trung nghĩa của ông.
Anh hùng còn nhớ GIẢI LƯƠNG xưa
Lãm liệt QUAN CÔNG tiếng đến giờ
Huynh đệ một ngày tình nghĩa nặng
Đế vương muôn kiếp khói huơng thờ
Gương trung vằng vặc soi trời bể
Nghĩa khí ầm ầm nổi gió mưa
Đình miếu đến nay đâu chẳng có
Trải qua ngày tháng vẫn trơ trơ!
QUAN CÔNG mất đi nhưng tiếng tăm còn để lại đến muôn đời. Một vị anh hùng không hề biết khiếp sợ trước cường quyền luôn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Ngôi mộ Quan Công nằm ở thị trấn Quan Lâm, thuộc vùng ngoại ô phía Nam thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Đối với người dân Trung Quốc, đây là một thánh địa hết sức thiêng liêng. Hàng năm, vào mùa thu, người Hoa trong nước và Hoa kiều hải ngoại tụ tập về đây rất đông để dự một lễ hội nhiều ngày có tên là Quan Lâm quốc tế triều thánh đại điển.
Trung Quốc có rất nhiều thành phố vốn là kinh đô cổ xưa, nhưng nay người ta phân loại và xếp hạng có bảy kinh đô lớn, gọi là thất đại cổ đô (Trung Quốc dùng từ cổ đô chứ không gọi là cố đô như ở Việt Nam). Đó là Bắc Kinh, Nam Kinh, Tây An, Hàng Châu, Lạc Dương, An Dương, Khai Phong. Riêng trong tỉnh Hà Nam, đã có 3 cổ đô là Lạc Dương, An Dương, Khai Phong.
Thành phố Lạc Dương (nơi có ngôi mộ Quan Công) ra đời cách đây hơn 3.000 năm (11 thế kỷ trước Công nguyên). Trước sau, có tất cả chín triều đại đã kiến đô tại đây: Đông Chu, Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Đường, Hậu Lương, Hậu Đường… Vì thế, Lạc Dương còn được gọi là Cửu triều cổ đô.
Lạc Dương hiện nay là một thành phố cỡ trung bình, dân số khoảng 1 triệu người, nằm ở tả ngạn con sông Lạc Hà, đổ ra con sông lớn Hoàng Hà nằm ở phía Bắc thành phố. Lạc Dương thu hút du khách vì có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng, như hang đá Long Môn (Long Môn Thạch Oa) với 100. 000 pho tượng Phật khắc vào vách đá, được UNESCO xếp vào di sản văn hóa thế giới vào năm 2000, chùa Bạch Mã, ngôi chùa Phật xưa nhất của Trung Quốc, mộ Quan Công và thành cổ thời Hán và Ngụy. Ngoài ra, Lạc Dương còn nổi tiếng là xứ sở của hoa mẫu đơn, được chọn là “quốc hoa của Trung Quốc”.
Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, nơi an táng các bậc đế vương được gọi là lăng, còn nơi an táng của tất cả các người khác, từ quan đại thần cho đến dân thường, đều gọi là mộ. Thế nhưng, trong lịch sử Trung Quốc, có hai nhân vật không phải là vua hay hoàng đế nhưng nơi an táng lại được gọi là lăng mộ hay lăng tẩm: đó là Khổng Tử và Quan Công, cả hai đều được tôn xưng là “thánh nhân”, một người là “văn thánh”, một người là “võ thánh”.
Khổng Tử người nước Lỗ thời Xuân Thu là nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại của Trung Quốc cổ đại, học thuyết Nho gia của ông là cơ sở văn hóa của xã hội Trung Quốc trong suốt mấy nghìn năm lịch sử. Nhân dân Trung Quốc tôn vinh ông là “thánh sư”, là bậc “chí thánh”.
Quan Công, tên là Quan Vũ, tự là Vân Trường, là một viên tướng thời Tam Quốc. Ông không phải là nhà quân sự lỗi lạc, ông là một viên tướng giỏi đánh trận như rất nhiều viên tướng khác trong ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Nhưng qua sự miêu tả của La Quán Trung trong bộ tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa, Quan Công nổi bật như một điển hình về khí tiết của người quân tử với những đức tính nhân, nghĩa, tín, dũng (còn về trí thì còn thua kém nhiều người).
Sau khi chết, Quan Công còn hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền và nói chuyện với nhà sư Phổ Tĩnh. Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, Quan Công là nhân vật được hư cấu nhiều nhất và đã trở thành “thánh nhân”, thậm chí những gì có liên quan đến Quan Công, như thanh long đao, ngựa Xích Thố đều trở thành những nhân vật linh thiêng.
(Theo damayman. com)
Cám ơn Quý khách đã dành thời gian ghé thăm website QUATANGPHONGTHUY.COM.VN và đọc bài viết này
(Vui lòng click vào mã số để xem chi tiết)
Mã: 801 | Mã: 446 |
Mã: 236 | Mã: 283 |